Tin tức và Sự kiện

Quốc hội thông qua Luật Đất đai (sửa đổi)

Với đa số phiếu tán thành, sáng 29/11, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Đất đai (sửa đổi). 

 

Đã tiếp thu khá toàn diện ý kiến đại biểu Quốc hội

Báo cáo tiếp thu, giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu trình bày đã thể hiện sự tiếp thu khá toàn diện ý kiến của đại biểu Quốc hội (tập trung vào 9 nội dung cơ bản và một số vấn đề khác) đã được đưa vào Luật Đất đai sửa đổi lần này như: Kỳ quy hoạch sử dụng đất là 10 năm; Khung giá đất, việc bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất, giá đất….

Cụ thể, trong Luật Đất đai qui định việc bồi thường thiệt hại do việc trưng dụng đất gây ra thực hiện theo quy định sau: Người có đất trưng dụng được bồi thường thiệt hại trong trường hợp đất trưng dụng bị hủy hoại; trường hợp người có đất trưng dụng bị thiệt hại về thu nhập do việc trưng dụng đất trực tiếp gây ra; Trường hợp đất trưng dụng bị hủy hoại thì việc bồi thường được thực hiện bằng tiền theo giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường tại thời điểm thanh toán; Trường hợp thu nhập của người có đất trưng dụng bị thiệt hại do việc trưng dụng đất trực tiếp gây ra thì mức bồi thường được xác định căn cứ vào mức thiệt hại thu nhập thực tế tính từ ngày giao đất trưng dụng đến ngày hoàn trả đất trưng dụng được ghi trong quyết định hoàn trả đất trưng dụng. Mức thiệt hại thu nhập thực tế phải phù hợp với thu nhập do đất trưng dụng mang lại trong điều kiện bình thường trước thời điểm trưng dụng đất;

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện nơi có đất trưng dụng thành lập Hội đồng để xác định mức bồi thường thiệt hại do thực hiện trưng dụng đất gây ra trên cơ sở văn bản kê khai của người sử dụng đất và hồ sơ địa chính. Căn cứ vào mức bồi thường thiệt hại do Hội đồng xác định, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quyết định mức bồi thường;

Tiền bồi thường thiệt hại do việc trưng dụng đất gây ra được ngân sách nhà nước chi trả một lần, trực tiếp cho người có đất trưng dụng trong thời hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày hoàn trả đất”.

Chính phủ điều chỉnh khung giá đất cho phù hợp

Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng bổ sung quy định về theo dõi biến động giá đất và quy định tỷ lệ biến động giá đất thị trường để điều chỉnh khung giá đất, bảng giá đất. Theo đó, “Chính phủ ban hành khung giá đất định kỳ 05 năm một lần đối với từng loại đất, theo từng vùng. Trong thời gian thực hiện khung giá đất mà giá đất phổ biến trên thị trường tăng từ 20% trở lên so với giá tối đa hoặc giảm từ 20% trở lên so với giá tối thiểu trong khung giá đất thì Chính phủ điều chỉnh khung giá đất cho phù hợp.”

Luật Đất đai cũng được bổ sung quy định về sự tham gia của cơ quan tư vấn giá đất trong Hội đồng thẩm định giá đất để đảm bảo sự khách quan. Theo đó, “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể. Cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức việc xác định giá đất cụ thể. Trong quá trình thực hiện, cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh được thuê tổ chức có chức năng tư vấn định giá đất để tư vấn xác định giá đất cụ thể.

Việc xác định giá đất cụ thể phải dựa trên cơ sở điều tra, thu thập thông tin về thửa đất, giá đất thị trường và thông tin về giá đất trong cơ sở dữ liệu đất đai; áp dụng phương pháp định giá đất phù hợp. Căn cứ kết quả tư vấn giá đất, cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh trình Hội đồng thẩm định giá đất xem xét trước khi trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định.

Hội đồng thẩm định giá đất gồm: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm Chủ tịch và đại điện của cơ quan, tổ chức có liên quan, tổ chức có chức năng tư vấn định giá đất.”

Có ý kiến đề nghị không thu tiền sử dụng đất đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân chuyển mục đích sử dụng đất vườn sang đất ở. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng: Pháp luật đất đai hiện hành đã có quy định về việc thu tiền sử dụng đất đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân chuyển mục đích sử dụng đất vườn sang đất ở và đã được tổ chức thực hiện trong nhiều năm qua. Do đó, để đảm bảo công bằng giữa những người sử dụng đất, tránh khiếu kiện và đảm bảo tính ổn định trong chính sách thu tiền sử dụng đất đã thực hiện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ như Dự thảo Luật

Bên cạnh các tiếp thu, giải trình nêu trên, Ủy ban Thường vụ cũng đã phản hồi các ý ý kiến đề nghị bổ sung quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của chủ hộ gia đình đối với việc sử dụng đất để tránh trường hợp chủ hộ (đa phần là nam giới) lợi dụng quy định này gây thiệt hại đối với các thành viên khác trong gia đình, đặc biệt là phụ nữ; ý kiến đề nghị bổ sung quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đai kể cả các đảo thuộc địa giới hành chính tỉnh, thành phố...

Ngoài ra, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy nhiều ý kiến đã được giải trình trong Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 và kỳ họp thứ 6 như: Chính sách đất ở, đất sản xuất nông nghiệp đối với đồng bào dân tộc thiểu số; mối quan hệ giữa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất với các quy hoạch chuyên ngành khác; nguyên tắc dân chủ, công khai trong quá trình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các cấp; lấy ý kiến trong quá trình tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ; xin chấp thuận của các bộ, ngành khi giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án tại các đảo và các xã, phường, thị trấn biên giới, ven biển; thời gian lập, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư; xử lý giá đất giáp ranh; thời hạn giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân; thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai; chế tài xử lý vi phạm pháp luật đất đai.

Nhà nước quyết định thu hồi đất vì quốc phòng an ninh, phát triển kinh tế xã hội

Nhà nước quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây: Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai; Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người.

Nhà nước quyết định trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai.

Cụ thể, Luật quy định, Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh trong các trường hợp sau: Làm nơi đóng quân, trụ sở làm việc; Xây dựng căn cứ quân sự; Xây dựng công trình phòng thủ quốc gia, trận địa và công trình đặc biệt về quốc phòng, an ninh; Xây dựng ga, cảng quân sự; Xây dựng công trình công nghiệp, khoa học và công nghệ, văn hóa, thể thao phục vụ trực tiếp cho quốc phòng, an ninh; Xây dựng kho tàng của lực lượng vũ trang nhân dân; Làm trường bắn, thao trường, bãi thử vũ khí, bãi hủy vũ khí; Xây dựng cơ sở đào tạo, trung tâm huấn luyện, bệnh viện, nhà an dưỡng của lực lượng vũ trang nhân dân; Xây dựng nhà công vụ của lực lượng vũ trang nhân dân; Xây dựng cơ sở giam giữ, cơ sở giáo dục do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quản lý. 

Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng trong các trường hợp sau: Thực hiện các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư mà phải thu hồi đất; Thực hiện các dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư mà phải thu hồi đất, bao gồm: Dự án xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế; khu đô thị mới, dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); Dự án xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương; trụ sở của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao; công trình di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng, công viên, quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm, công trình sự nghiệp công cấp quốc gia; Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật cấp quốc gia gồm giao thông, thủy lợi, cấp nước, thoát nước, điện lực, thông tin liên lạc; hệ thống dẫn, chứa xăng dầu, khí đốt; kho dự trữ quốc gia; công trình thu gom, xử lý chất thải;

Đồng thời, Nhà nước cũng thu hồi đất để phát triển kinh tế-xã hội trong trường hợp thực hiện các dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận mà phải thu hồi đất bao gồm: Dự án xây dựng trụ sở cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; công trình di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng, công viên, quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm, công trình sự nghiệp công cấp địa phương; Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật của địa phương gồm giao thông, thủy lợi, cấp nước, thoát nước, điện lực, thông tin liên lạc, chiếu sáng đô thị; công trình thu gom, xử lý chất thải; Dự án xây dựng công trình phục vụ sinh hoạt chung của cộng đồng dân cư; dự án tái định cư, nhà ở cho sinh viên, nhà ở xã hội, nhà ở công vụ; xây dựng công trình của cơ sở tôn giáo; khu văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí phục vụ công cộng; chợ; nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng; Dự án xây dựng khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn mới; chỉnh trang đô thị, khu dân cư nông thôn; cụm công nghiệp; khu sản xuất, chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản, hải sản tập trung; dự án phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; Dự án khai thác khoáng sản được cơ quan có thẩm quyền cấp phép, trừ trường hợp khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn, khoáng sản tại các khu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ và khai thác tận thu khoáng sản.

Luật Đất đai (sửa đổi) được thông qua gồm 14 chương, 212 điều, sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2014.

Xem mục Tư liệu để có toàn văn Luật Đất đai (sửa đổi):